1. Tổ chức lao động khoa học (TCLĐKH) – vấn đề không mới, nhưng cũng không bao giờ cũ

Từ khi xuất hiện trên trái đất cách đây hàng chục nghìn năm, loài người đã trải qua nhiều hình thái khác nhau về sinh học và xã hội. Để tồn tại và phát triển được trong môi trường tự nhiên đầy khắc nghiệt, con người sử dụng một phương thức tuyệt vời, đó là lao động.

Đang xem: Khái Niệm Về Tổ Chức Lao Động Khoa Học Trong Văn Phòng Một Số Cơ Quan Bộ

Lao động không chỉ cung cấp mọi yếu tố thiết yếu trong cuộc sống, từ những nhu cầu cá nhân như lương thực, quần áo, nhà ở… đến những nhu cầu cho cả cộng đồng như đê điều phòng chống thiên tai, kênh mương phục vụ thuỷ lợi; từ nhu cầu vật chất đến tinh thần. Thông qua lao động, con người được phát triển mọi mặt tư duy, nhận thức, kỹ năng sống, giao tiếp…, ngôn ngữ ra đời cũng từ quá trình này. Như vậy lao động là hoạt động sống còn đối với sự tồn vong và phát triển của xã hội loài người.

Các Mác viết: “Lao động là một hoạt động có ý thức của con người; trong quá trình lao động, con người sử dụng các công cụ lao động để tác động vào tự nhiên, sử dụng tự nhiên để tạo nên các giá trị sử dụng cần thiết cho việc thoả mãn các nhu cầu của mình”. Cũng theo Mác, quá trình sản xuất ra của cải vật chất dù trong thời kỳ nào cũng phải theo một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố người lao động và tư liệu sản xuất; quan hệ sản xuất gồm 3 loại quan hệ: quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý, và quan hệ về phân phối sản phẩm.

Nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người hầu như là vô hạn, không có một mức sống nào được coi là hoàn thiện. Trong khi đó, lực lượng sản xuất, tức là sức lao động và tư liệu lao động, lại là yếu tố có hạn trong từng thời kỳ. Vì vậy, con người phải tìm ra phương cách sử dụng hiệu quả nhất những nguồn tài nguyên hạn chế này, song song với việc cải thiện quan hệ sản xuất thích hợp nhất cho từng thời kỳ. Đây chính là điều kiện để ra đời một ngành khoa học mới – khoa học về tổ chức lao động.

Tổ chức lao động, tiếng Latin là ergonomic, vốn được kết hợp từ hai từ Hy Lạp cổ: “ergon”- lao động và “nomos”- luật, quy luật. Theo nghĩa này, và cũng theo quan niệm của các nước Tây Âu và Mỹ, đó là những nguyên tắc khoa học được thiết lập dựa trên hiểu biết về mối quan hệ tương tác giữa người lao động và các yếu tố còn lại trong một hệ thống sản xuất vật chất nhất định; nó còn là sự áp dụng các lý thuyết, nguyên tắc, cơ sở dữ liệu nhằm làm tối ưu hoá hoạt động của hệ thống nói chung và sự tiện nghi cho con người nói riêng.<3>

Trải qua những mất mát to lớn trong chiến tranh thế giới thứ II, nước Nga Xôviết vươn mình mạnh mẽ đứng dậy, nhanh chóng trở thành một cường quốc về công nghiệp và quân sự. Trong giai đoạn đó, họ đã sử dụng một cách cực kỳ hiệu quả những tư liệu mình có, và không cần sự giúp đỡ từ bên ngoài nào. Có được thành quả như vậy, phần nhiều nhờ nước này đã chú ý nghiên cứu và áp dụng những thành quả nghiên cứu về tổ chức lao động vào các ngành kinh tế từ rất sớm. Theo định nghĩa của các nhà khoa học Xô viết: “TCLĐKH là toàn bộ những biện pháp hoàn thiện không ngừng được áp dụng trong việc tổ chức lao động trên cơ sở những thành tựu của khoa học và kinh nghiệm tiên tiến. Những biện pháp hoàn thiện này tạo khả năng kết hợp một cách tốt nhất kỹ thuật và con người trong một quá trình sản xuất thống nhất, tạo khả năng tăng năng suất lao động, làm cho lao động trở thành có nội dung phong phú, góp phần bảo vệ sức khoẻ của con người, và dần dần biến lao động thành nhu cầu thiết thân hàng đầu của con người”<1>.

Những ý tưởng của con người làm sao sử dụng tiết kiệm tài nguyên để tăng năng suất lao động: sức lao động, nguyên, nhiên liệu và đặc biệt là thời gian thì đã xuất hiện từ rất lâu, cùng lúc với sự xuất hiện của hoạt động lao động. Nhưng để có một ngành khoa học thực sự nghiên cứu về vấn đề này, nhân loại đã phải chờ tới thế kỷ 19, khi Frederick W. Taylor , cha đẻ của khoa học về động tác trong lao động, đặt những viên gạch nền móng đầu tiên. Taylor xuất thân trong một gia đình giàu có, đã từng làm nhân viên, đốc công, trưởng bộ phận nghiên cứu và cuối cùng là kỹ sư trưởng của nhà máy thép Midvale, có bằng kỹ sư cơ khí. Nhờ tư duy và đầu óc quan sát, lúc đầu Taylor tổng kết được các động tác cơ bản nhất của người công nhân, xây dựng quy trình làm việc tối ưu về mặt thời gian. Sau này, ông còn nghiên cứu sâu thêm về mặt quản lý, đưa ra bức tranh toàn cảnh về nền công nghiệp của Mỹ thời bấy giờ. Nội dung khoa học Taylor đề xuất bao gồm:

– Chia nhỏ phần việc, xây dựng định mức cho các công việc nhỏ này bằng cách bấm giờ.

– Chuyên môn hoá công nhân cũng như thiết bị, công cụ và môi trường làm việc. Mỗi người chỉ thành thạo và làm một công việc nhất định, nhờ đó năng suất lao động được nâng cao.

– Thực hiện chế độ trả lương theo sản phẩm, kích thích nỗ lực của người lao động.

– Tổ chức sản xuất trong nhà máy theo dây chuyền liên tục.

Ảnh hưởng của thuyết Taylor thật to lớn, nó làm thay đổi hẳn hiệu quả của nền công nghiệp nước Mỹ trong thời gian sau đó. Henry Ford đã ứng dụng thuyết quản lý sản xuất và dây chuyền của Taylor vào nhà máy Ford của mình. Kết quả là Ford Motors trở thành tập đoàn sản xuất ôtô lớn nhất trên thế giới hồi đầu thế kỷ 20.

Cũng nghiên cứu về tổ chức lao động, nhưng Henri Fayol (1841-1925) lại đặt trọng tâm nghiên cứu ở quan hệ tổng thể quản lý xí nghiệp chứ không phải từng công nhân một. Ông đề ra 14 nguyên tắc về quản lý, tổ chức lao động. Thuyết quản lý tổ chức tổng thể này mang tính xã hội cao hơn so với thuyết quản lý lao động của Taylor, nó giải quyết những vấn đề lớn thường xuất hiện ở tầm của các công ty lớn, các tập đoàn gồm: sản xuất, thương mại, tài chính, kế toán, an ninh và quản lý điều hành.

Sau Taylor và Fayol, nhiều nhà khoa học trên thế giới cũng đã tham gia nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của TCLĐKH, điển hình là Follet (1868-1933), Simon (1916-2001)… Các công trình của họ làm phát triển môn khoa học này, nhiều trong số đó còn được ứng dụng vô cùng hiệu quả tới ngày nay.

Như vậy hiệu quả của môn khoa học về Tổ chức lao động đã được khẳng định, vấn đề chỉ là áp dụng nó như thế nào, vì trong mỗi ngành công nghiệp sản xuất khác nhau, lại đòi hỏi phải thật linh hoạt, sao cho phù hợp với tính chất của ngành, đặc điểm tâm sinh lý người lao động và các quan hệ xã hội khác.

Trong phạm vi bài viết này, tác giả muốn đề cập đến ngành xây dựng cơ bản. Ngành xây dựng có một vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nó là ngành kinh tế duy nhất tạo ra của cải vật chất cố định cho các ngành kinh tế còn lại. Hàng năm, kinh phí cho ngành xây dựng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập quốc dân, nhất là ở các nước đang phát triển. Vì vậy việc áp dụng TCLĐKH vào ngành xây dựng nếu thực hiện được, sẽ mang lại hiệu quả lớn lao đối với khả năng sản xuất của ngành nói riêng, sự phát triển của cả nền kinh tế đất nước nói chung.

2. Một số hướng nghiên cứu của TCLĐKH hiện đại trên thế giới. Khả năng ứng dụng trong ngành xây dựng

Hướng nghiên cứu đầu tiên là tối ưu hoá động tác của người lao động. Trong nhiều cách để tạo ra sản phẩm, chắc chắn sẽ có cách nhanh nhất, tốn ít sức lao động nhất. Khi thực hiện lao động theo cách này, năng suất tăng cao, giá thành sản phẩm sẽ hạ và người lao động thực sự vui thích khi làm việc. Muốn vậy, trong quy trình động tác lao động, cần loại bỏ tất cả các động tác thừa, các động tác tiềm ẩn nguy cơ tai nạn lao động; không những thế còn phải sắp xếp trình tự các động tác hợp lý, xây dựng những tiêu chuẩn và đào tạo cho công nhân quy trình tối ưu này. Nhiều dụng cụ trợ giúp đã được phát minh nhằm làm cho hoạt động lao động trở nên dễ dàng hơn. Năm 2005 các nhà khoa học Nhật Bản tại đại học Tsukuba đã có một phát minh rất thú vị: HAL – một bộ quần áo trợ giúp hệ vận động của con người. Có trọng lượng chỉ 22kg, nhưng khi mặc bộ quần áo này vào, người ta có thể mang vác vật nặng hơn cả cơ thể mình, di chuyển nhanh và linh hoạt, tránh được mệt mỏi và chấn thương. Đây là ứng dụng vô cùng lớn dùng cho những lao động nặng nhọc như công nhân xây dựng, công nhân bốc xếp, y tá cần chăm sóc bệnh nhân…

Lao động luôn được thực hiện trong một môi trường và những điều kiện nhất định, những điều kiện này có ảnh hưởng đến năng suất lao động và tâm sinh lý của người lao động. Như vậy cần nghiên cứu để thiết kế tạo ra những điều kiện lao động thích hợp nhất, hay còn gọi là hướng nghiên cứu cải thiện điều kiện lao động, cho từng loại hình lao động, điều kiện lý tưởng này sẽ làm tăng năng suất, giảm giá thành sản phẩm và đạt được các mục tiêu khác. Điều kiện lao động bao gồm nhiều yếu tố: nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ, gió… Con người chỉ có thể hoạt động bình thường trong một ngưỡng nào đó đối với một loại yếu tố. Ví dụ với nhiệt độ, theo nghiên cứu của đại học công nghệ Helsinki – Phần Lan, nhiệt độ môi trường tiêu chuẩn của người công nhân là từ 18-31oC, khoảng hiệu quả (tiện nghi nhất) là từ 21-23oC (hình 1) <4>. Ngoài ngưỡng này, năng suất lao động giảm nhanh. Độ ẩm cũng vậy, độ ẩm cao cản trở sự bay hơi của mồ hôi, gián tiếp làm tăng thân nhiệt, là môi trường cho vi khuẩn phát triển, độ ẩm thấp gây khô mũi, nứt nẻ da… Độ ẩm môi trường lý tưởng cho công nhân là từ 40-60%.

*

Hình 1.Biểu đồ quan hệ nhiệt độ – năng suất

Lao động sản xuất nói chung và hoạt động xây dựng nói riêng đang ngày càng được hiện đại hoá với sự tham gia ngày càng nhiều hơn của máy móc. Nhưng dù vai trò của máy móc tự động có càng tăng lên thì con người vẫn luôn là thành tố trung tâm trong hệ thống tư liệu sản xuất. Sự thoải mái về mặt tâm lý, động lực mạnh mẽ, và cao hơn là niềm hạnh phúc mà con người tìm thấy trong quá trình lao động là điều mà phương thức sản xuất nào cũng đều hướng tới. Như vậy rất cần thiết phải nghiên cứu tìm ra những nhu cầu thiết yếu về vật chất và tinh thần của người lao động, từ đó tìm cách thoả mãn chúng. Hướng nghiên cứu kích thích lao động trong những năm gần đây rất được các nhà quản lý quan tâm tìm hiểu và đẩy mạnh áp dụng. Có rất nhiều cách tiếp cận để kích thích người lao động. Các giáo trình quản trị doanh nghiệp của đại học danh tiếng Havard đã nhắc đi nhắc lại một ví dụ mà theo họ là kinh điển: từ năm 1914, Henry Ford đã thực hiện chính sách trả công “5 đô la một ngày” cho người lao động, sau đó áp dụng chính sách tuần làm việc 40h; đây là hai chính sách chịu sự chỉ trích dữ dội và hoài nghi từ các nhà kinh tế tại Phố Wall vì nó quá tốn kém. Tuy nhiên, Ford đã chứng minh cho luận điểm của ông một cách thuyết phục bằng sự thành công rực rỡ của Ford Motors, xuất phát từ chất lượng sản phẩm và năng suất đáng kinh ngạc của công nhân. Như vậy trong nhiều trường hợp, những đầu tư thích đáng cho việc kích thích người lao động đem lại hiệu quả lớn hơn nhiều so với chi phí đã bỏ ra.

Nếu các hướng nghiên cứu trên quan tâm chủ yếu tới cá thể người lao động thì hướng nghiên cứu về sự phân công và hợp tác trong lao động lại chú trọng về mặt tổ chức, nghĩa là sự phối hợp giữa những cá nhân thành một nhóm lao động, giữa các nhóm thành một tập thể lao động. Đây là hướng nghiên cứu cơ bản của môn khoa học này, nó đặc biệt được chú trọng trong những công xưởng sản xuất sử dụng nhiều sức lao động của con người, mức độ đa dạng của công việc cao. Do đó công trường xây dựng là nơi cực kỳ cần thiết áp dụng nghiên cứu theo hướng này. Trong công trường xây dựng, có rất nhiều loại công việc, từng loại công việc lại được phân chia nhỏ: công tác chính và công tác phụ, công tác có kỹ thuật cao và công tác đơn giản. Ví dụ với công tác xây, người ta thường tổ chức một tổ gồm những người thợ có chức năng chuyên môn khác nhau, có thợ chính trực tiếp xây, thợ phụ phục vụ cho thợ chính trong việc vận chuyển vật liệu, căn chỉnh, dọn dẹp mặt bằng…Đó chính là sự phân công lao động trong tổ xây. Ngoài ra, sự hợp tác lao động thể hiện khi một số tổ lao động cùng phối hợp để tạo ra một sản phẩm. Trường hợp này là công tác bêtông toàn khối, chỉ có thể thực hiện nhờ sự phối hợp đầy đủ của các tổ ván khuôn, cốt thép và bêtông. Kết quả của hướng nghiên cứu về sự phân công và hợp tác trong lao động là tìm được sự phân chia và hợp tác tối ưu đối với từng loại công tác và loại sản phẩm nhất định.

Ở mức tổ chức cao hơn, hướng nghiên cứu tìm ra những mô hình quản lý thích hợp đối với từng cấp của quá trình sản xuất lại mang hiệu quả cực kỳ to lớn và cần được định hướng ở tầm vĩ mô. Áp dụng mô hình quản lý nào là tùy thuộc vào quan hệ sản xuất trong xã hội, vào các định chế kinh tế. Trên thế giới, phổ biến và mạnh mẽ nhất là hình thức các tập đoàn đa quốc gia – công ty con. Mối liên hệ giữa tập đoàn và công ty con của nó hầu hết là giống nhau đối với các tập đoàn. Tập đoàn chịu trách nhiệm liên hệ với chính phủ bản địa, xin phép thành lập, cung cấp vốn, thương hiệu, uy tín, và bảo hộ cho các công ty con. Tập đoàn tồn tại và phát triển nhờ vào các nguồn lực để nuôi sống từ các công ty con. Trong khi đó, việc tổ chức trong các công ty này như thế nào mới thật quan trọng. Với mỗi công ty cần tìm ra một mô hình tổ chức thích hợp cho riêng mình để đạt hiệu quả kinh tế tối ưu. Những phương thức cần được quan tâm nghiên cứu đó là: phương thức huy động tài nguyên; phương thức quản lý chất lượng sản phẩm; phương thức thông tin liên lạc (giao tiếp nội bộ); phương thức thu thập và xử lý thông tin (đối với lãnh đạo). Về mặt hình thức, công ty cổ phần đang là xu thế tất yếu cho các doanh nghiệp sản xuất muốn phát triển thành doanh nghiệp lớn. Người lao động, thông qua việc nắm giữ cổ phần, trở thành chủ sở hữu của công ty. Đây rõ ràng là cách hiệu quả nhất để gắn kết họ với công ty. Hơn ai hết, họ nhận thức được rằng, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp gắn liền với đời sống và sự nghiệp của họ. Người lao động tìm được động lực to lớn để làm việc, cống hiến hết mình cho doanh nghiệp. Mọi quá trình trong doanh nghiệp sẽ được chính người lao động giám sát chặt chẽ, từ hiệu quả sử dụng tài nguyên, chất lượng sản phẩm cũng như bảo vệ môi trường…Kim Woo Choong, cựu chủ tịch tập đoàn Daewoo thời hoàng kim, là bậc thầy trong việc truyền cảm hứng làm việc cho nhân viên của mình. Nhân viên của Daewoo khi đó say mê làm việc tới mức: “nếu các công ty khác làm việc từ 9h sáng đến 5h chiều thì nhân viên của chúng tôi làm việc từ 5h sáng đến 9h tối,…, kết quả là Daewoo chỉ cần 22 năm để phát triển bằng thành quả trong suốt 44 năm của công ty khác…”, theo lời ông <7>. Sở dĩ người lao động ở đây làm việc hăng say quên mình như vậy là vì họ coi công việc là một niềm vui thích vô bờ bến, coi công ty như gia đình mình, cống hiến vì công ty cũng như cống hiến cho gia đình thân yêu của mình. Đó là mục tiêu cho rất nhiều công trình nghiên cứu của các trường đại học, viện nghiên cứu lớn, cũng như do chính các công ty tự đầu tư thực hiện.

3. Thực trạng ngành xây dựng Việt Nam, những thuận lợi và khó khăn để triển khai ứng dụng TCLĐKH

Kinh tế thế giới đang suy thoái một cách toàn diện và sâu sắc, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng đó. Theo nhận định của Ngân hàng Thế giới (WB), khi các ngành kinh tế đều gặp khó khăn về vốn, thị trường xuất khẩu… ngành xây dựng sẽ đóng vai trò cứu cánh cho nền kinh tế, giúp duy trì mức tăng GDP trên 6% trong năm 2009.

Trong khi các sản phẩm công nghiệp hầu như chỉ có một hoặc một số dây chuyền sản xuất ra nó thì với sản phẩm xây dựng lại tồn tại rất nhiều cách để tạo nên một công trình. Và vì thế, giá thành của một công trình xây dựng rất đa dạng, phụ thuộc rất nhiều yếu tố, không ổn định. Nếu doanh nghiệp thực hiện tổ chức lao động tốt, chất lượng sản phẩm được nâng cao, giá thành rẻ, họ sẽ có lợi nhuận, uy tín và cạnh tranh tốt trên thị trường. Ngược lại, nếu doanh nghiệp tổ chức lao động kém, đi đôi với chất lượng sản phẩm kém, giá cao, sẽ lãi ít hoặc thậm chí lỗ vốn, mất thị phần… dẫn đến suy yếu doanh nghiệp hoặc thậm chí phá sản.

Ngành xây dựng sử dụng lao động mức chuyên nghiệp hoá chưa cao, ít được đào tạo cơ bản, chính quy, lại mang tính thời vụ. Máy móc cũng không đồng nhất: cùng một công ty, thậm chí trên cùng một công trường, có thể tồn tại cùng lúc những loại máy cũ nát, hết hạn sử dụng với các loại máy móc rất mới; do đó rất khó để quản lý lao động, dẫn đến chất lượng sản phẩm không ổn định.

Ngược lại với sản xuất công nghiệp, sản xuất xây dựng có đặc điểm: sản phẩm là các công trình thì đứng yên, còn dây chuyền sản xuất ra chúng lại di chuyển. Đời sống người lao động trong ngành xây dựng do đó rất không ổn định, nay đây mai đó. Doanh nghiệp xây dựng không chỉ có trách nhiệm tổ chức quá trình lao động mà còn phải tổ chức đời sống cho người công nhân ngoài giờ sản xuất, phải lo chỗ ăn, ở, sinh hoạt… Điều này gây phức tạp và trở thành gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp so với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác.

Các doanh nghiệp xây dựng đang cạnh tranh để thắng thầu chủ yếu bằng giá dự thầu thấp, họ có xu hướng cắt giảm mọi yếu tố gây tốn chi phí, trong đó có cả việc quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của công nhân.

Thị trường xây dựng không ổn định, ngoài việc phụ thuộc vào cả nền kinh tế như mọi ngành khác, còn phụ thuộc rất nhiều vào giá cả vật liệu xây dựng mà đây lại là yếu tố rất hay biến động.

Chúng ta đang hướng tới một nền kinh tế thị trường đầy đủ, tuy vậy nhiều yếu tố cũ vẫn còn ăn sâu; từ lề lối làm việc, cung cách quản lý, ý thức người lao động, cơ sở vật chất lạc hậu…

Hệ thống văn bản pháp luật vẫn chưa chặt chẽ và chưa hoàn chỉnh, thể hiện ở việc thường xuyên phải ban hành văn bản hướng dẫn thi hành, sửa đổi, gây khó khăn cho doanh nghiệp xây dựng và tốn thời gian để cập nhật lại kiến thức về luật.

Các đặc điểm trên dẫn đến thực trạng ngành xây dựng Việt Nam vẫn là một trong những ngành kinh tế thiếu ổn định nhất, rất nhạy cảm với những biến động của thị trường. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam ở thị trường nước ngoài vẫn là con số không; thậm chí ở trong nước vẫn còn rất ít doanh nghiệp đủ khả năng làm tổng thầu dự án. Công nhân xây dựng ít được xã hội coi trọng, hình ảnh người thợ xây dựng thường đi kèm với hình ảnh những con người học vấn thấp, luôn vất vả khổ cực cả cuộc đời.

Từ thực trạng của ngành xây dựng Việt nam, ta có thể thấy rõ những khó khăn cản trở việc ứng dụng TCLĐKH:

– Công nghệ xây dựng còn quá nhiều khâu lạc hậu, doanh nghiệp xây dựng nhiều khi không biết đâu là trọng tâm cần phải tập trung tài nguyên giải quyết trước.

Xem thêm: Khóa Học Xây Dựng Thương Hiệu Cá Nhân, Personal Branding

– Ngành xây dựng sử dụng nhiều vốn lưu động là vốn đi vay, áp lực trả lãi ngân hàng luôn ở mức cao, trong khi đó đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng TCLĐKH đôi khi lại cần một khoảng thời gian nhất định mới phát huy được hiệu quả.

– Tâm lý chung của người Việt là hay tiếc của, luôn muốn tận dụng trang thiết bị dù đã cũ nên thường rất khó khăn để đưa ra quyết định loại bỏ hoàn toàn công nghệ cũ để đưa công nghệ mới tiên tiến hơn vào sử dụng.

Nhưng cũng có không ít thuận lợi:

– Người Việt Nam thông minh, cần cù, ham học hỏi, rất dễ học tập những điều mới, có nhiều sáng kiến trong quá trình lao động.

– TCLĐKH có rất nhiều mức độ áp dụng, doanh nghiệp xây dựng nào, người lao động nào cũng có thể tìm ra mức độ phù hợp nhất với mình để chọn lựa, do đó việc ứng dụng môn khoa học này trong xây dựng là khả thi với mọi điều kiện kinh tế xã hội.

– Nhà nước ta rất quan tâm đến việc đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ mới vào mọi lĩnh vực sản xuất trong đó có lĩnh vực xây dựng. Điều này được định hướng trong văn kiện Đại hội Đảng, và là phương thức để chúng ta “đi tắt, đón đầu”.

– Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào các tổ chức kinh tế, chính trị quốc tế như WTO, APEC, ASEAN…, điều này cực kỳ thuận lợi cho việc du nhập những thành quả nghiên cứu TCLĐKH của các nước bạn trong quá trình hợp tác, giao dịch, liên doanh liên kết.

4. Một số đề xuất áp dụng TCLĐKH để phát triển ngành xây dựng nước ta

Từ những phân tích trên đây, hiệu quả to lớn của TCLĐKH trong ngành xây dựng ở nước ta và những thuận lợi cũng như khó khăn để áp dụng đã được làm rõ. Vấn đề là làm thế nào phát huy những thế mạnh, vượt qua rào cản để ứng dụng thành công môn khoa học này.

Trong hoàn cảnh đất nước vẫn còn nhiều khó khăn, vốn của các doanh nghiệp xây dựng cũng như ngân sách Nhà nước chưa thể đầu tư một cách ồ ạt cho nghiên cứu tổ chức lao động, chúng ta chưa thể trông đợi một cuộc cách mạng về TCLĐKH trong toàn ngành xây dựng mà cần phải chọn lọc ra những vấn đề thiết yếu để ưu tiên đầu tư trước.

Do đó, trước tiên cần phải tìm hiểu những khâu lạc hậu nhất, cũng như những khâu dễ áp dụng TCLĐKH mà có hiệu quả cao nhất. Việc tìm hiểu này có thể thông qua các đề tài khoa học; tổng điều tra bằng cách phát phiếu đánh giá; xây dựng những dự án thí điểm trong đó áp dụng TCLĐKH ở từng công đoạn, có đo lường để xác định hiệu quả.

Sau khi đã xác định được thứ tự ưu tiên của các khâu, đồng nghĩa với việc xây dựng được lộ trình cụ thể cho việc ứng dụng TCLĐKH, tác giả xin đề xuất hai nhóm giải pháp thực hiện tiếp theo:

Nhóm giải pháp thứ nhất: ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới trên thế giới.

Ngày nay với sự phát triển của viễn thông, đặc biệt là mạng Internet, việc khai thác thông tin trở nên rất dễ dàng. Chỉ cần có một chiếc máy tính nối mạng, doanh nghiệp nào cũng có thể tìm hiểu xem ở lĩnh vực của mình, thế giới đã phát triển đến đâu, có những công nghệ nào phù hợp với mình, điều kiện áp dụng… từ đó ra quyết định mục tiêu đầu tư thích hợp nhất cho bản thân.

Trong những năm gần đây, thị trường xây dựng trong nước phát triển nhanh chóng, đã xuất hiện yếu tố “quốc tế hoá”, thể hiện ở việc ngày càng nhiều nhà thầu nước ngoài là các tập đoàn xây dựng lớn đến Việt Nam. Họ tham gia vào hầu hết các hoạt động trong lĩnh vực xây dựng từ quản lý dự án, tư vấn thiết kế, giám sát, thi công xây lắp, xuất nhập khẩu trang thiết bị, xuất nhập khẩu lao động… Thông qua việc liên doanh liên kết, giao dịch với các doanh nghiệp nước ngoài này, các doanh nghiệp xây dựng trong nước có thể học hỏi rất nhiều điều. Xây dựng là ngành mang tính “mở”, các bí quyết nghề nghiệp hay công nghệ mới rất khó để giữ kín, chỉ cần giáo dục cho cán bộ, công nhân ý thức học tập khi quan sát các nhà thầu nước ngoài làm việc, hoặc thành lập hẳn những bộ phận chuyên trách học tập. Các doanh nghiệp xây dựng trong nước sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí so với việc cử chuyên gia đi đào tạo tại nước ngoài.

Ở cấp vĩ mô, Nhà nước cần có những điều chỉnh về mặt cơ chế, hệ thống văn bản pháp luật tạo điều kiện tối đa và khuyến khích ứng dụng những thành tựu nghiên cứu khoa học của nước ngoài. Chúng ta nên tham khảo những nước đi trước và có điều kiện kinh tế xã hội tương đối giống Việt Nam, chẳng hạn Trung Quốc, các nước ASEAN và các nước đang phát triển khác. Trước mắt, cần đơn giản hoá thủ tục hành chính, tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập đầy đủ vào hệ thống luật pháp quốc tế, trong đó có pháp luật về xây dựng.

Nhóm giải pháp thứ hai: phát huy nội lực, đẩy mạnh phong trào tự nghiên cứu áp dụng TCLĐKH trong các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp và toàn ngành xây dựng nói chung.

Để thực hiện nhóm giải pháp này, nhiệm vụ đầu tiên thuộc về các viện nghiên cứu, các cơ sở đào tạo (đại học, cao đẳng, trung cấp nghề xây dựng); ngoài ra tự bản thân các doanh nghiệp cũng phải luôn ý thức được tầm quan trọng của Tổ chức lao động một cách khoa học, không tiếc những đầu tư ban đầu để đạt hiệu quả lâu dài.

Có chính sách khuyến khích sáng kiến, sáng tạo cho các cá nhân, doanh nghiệp mạnh dạn áp dụng công nghệ, mô hình mới trong sản xuất.

Nên ban hành chế tài bắt buộc các doanh nghiệp xây dựng phải trích một phần lợi nhuận hàng năm dành cho công tác nghiên cứu khoa học. Chẳng hạn tỉ lệ trích nộp có thể là 2%, trong đó: 1% lợi nhuận cho quỹ nghiên cứu khoa học của riêng doanh nghiệp đó, 1% còn lại cho quỹ nghiên cứu khoa học chung của toàn ngành xây dựng.

Sau khi triển khai hai nhóm giải pháp trên, sẽ xuất hiện những thành quả bước đầu: những công trình nghiên cứu, những ý tưởng về áp dụng thành tựu của nước ngoài. Lúc này nảy sinh một nhiệm vụ mới, đó là đánh giá mức hiệu quả của các thành quả này. Tác giả đề xuất một cơ chế đánh giá dựa trên thử nghiệm – so sánh:

– Trong một loạt các dự án cùng loại, cùng một chủ đầu tư, xây dựng một dự án kiểu mẫu, cải tiến các yếu tố của dự án bao gồm tổ chức và phương thức thực hiện, so sánh hiệu quả kinh tế với các dự án còn lại.

– Trong một tổng công ty, chỉ định một công ty là công ty kiểu mẫu, áp dụng mô hình tổ chức quản lý mới, thậm chí mang nguyên hình mẫu của một số công ty nước ngoài thành công vào để hoạt động thử nghiệm, so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh (sản lượng, lợi nhuận) với các công ty còn lại.

– Trong một công ty, thành lập một đội sản xuất kiểu mẫu, chuyên ứng dụng những thành tựu công nghệ mới nhất, so sánh hiệu quả sản xuất (năng suất, chất lượng sản phẩm) với các tổ đội truyền thống.

– Ngoài ra, còn có thể thực hiện cơ chế thử nghiệm – so sánh này đến tận từng nhóm người lao động, thậm chí từng cá nhân, là cấp nhỏ nhất, cũng là cấp dễ nảy sinh sáng kiến nhất.

– Cũng cần lưu ý, không phải cái mới nào cũng tốt, cũng phù hợp. Khi thực hiện thử nghiệm, chúng ta phải đề phòng những rủi ro có thể xảy đến, do đó cần lập một quỹ phòng chống rủi ro để khắc phục hậu quả (nếu có).

TCLĐKH là một vấn đề không mới, nhưng vẫn luôn cấp thiết đối với ngành xây dựng nước ta. Bài viết này một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ứng dụng môn khoa học nay với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.

Hy vọng trong tương lai gần, kinh tế Việt Nam nói chung và ngành xây dựng nói riêng sẽ có vị thế quan trọng trên trường quốc tế, đủ khả năng cạnh tranh sòng phẳng với các tập đoàn xây dựng lớn trên thế giới, ngành xây dựng Việt Nam sẽ đặt dấu ấn trên bản đồ thương hiệu của kinh tế quốc tế. Tổ chức lao động có khoa học sẽ là bước đi đầu tiên hướng tới mục tiêu này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. B .E.Ghenbuôc. Những cơ sở của việc tổ chức lao động có khoa học. Bản dịch NXBGD, 1973.

2. IU. N. Dubrovski. Tổ chức lao động khoa học. NXB Kinh tế Matxcơva, 1974.

3. www.iea.cc. Web site chính thức của Hiệp hội tổ chức lao động khoa học quốc tế (IEA).

4. www.productivity-science.com. Web site về khoa học năng suất lao động.

Xem thêm: Top 10 Khóa Học Tiếng Anh Giao Tiếp Online Miễn Phí Dành Cho Người Đi Làm

5. Principles of Scientific Management. Newyork and London, Harper & brothers, 1911.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *