Giới thiệu Tin tức Nghiên cứu – Trao đổi Đào tạo Tuyển sinh Sinh viên

 

*

Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Hùng hậu lực lượng trí thức tham gia giáo dục

GS Trần Hữu Tá nhấn mạnh: Có thể kể đến 3 bộ phận. Lực lượng đông đảo hơn cả là các trí thức tân học, được đào tạo căn cơ ở trong nước hoặc du học nước ngoài về: Các bác sĩ Vũ Đình Tụng, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng; các luật sư Phan Anh, Dương Đức Hiền…; các GS Hoàng Minh Giám, Nguyễn Văn Huyên, Vũ Đình Hòe, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Tạ Quang Bửu, Ngụy Như Kon Tum…

Đang xem: Ngày 15/11/1945, bác hồ đã dự lễ khai giảng khóa đầu tiên của trường đại học nào?

Nguồn thứ hai, cũng ở trong nước nhưng khá đặc biệt – các bậc túc nho, đại khoa, các quan lại cao cấp của triều Nguyễn cũ: cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Bùi Bằng Đoàn, cụ Phan Kế Toại; và các vị khác: Bùi Kỷ, Võ Liêm Sơn, Nguyễn Văn Tố…

Nguồn thứ ba quan trọng không kém: Các vị sau khi du học thành công, có học vị cao, vì những lý do khác nhau đã ở lại nước ngoài, thậm chí có người đã lập gia đình tại đó. Có thể kể đến: Kỹ sư Trần Đại Nghĩa, GS toán học Lê Văn Thiêm, bác sĩ nông học Lương Định Của, tiến sĩ y khoa Đặng Văn Ngữ … và khá nhiều vị thành tài ở Pháp như GS Phạm Huy Thông, Trần Đức Thảo, các bác sĩ Trần Hữu Tước, Nguyễn Khắc Viện…

Hầu hết các vị kể trên đều được chính quyền cách mạng trọng dụng, tạo điều kiện để mỗi người phát huy tối đa năng lực sở trường, góp phần tích cực vào cuộc chiến tranh vệ quốc, cũng như xây dựng nền móng ban đầu cho các lĩnh vực quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục còn non yếu của đất nước.

Ngoài ra, do thời điểm đó, 95% dân số nước ta còn mù chữ, để trị giặc dốt, Bác Hồ đã hai lần làm việc với Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe và các cộng sự của ông, góp ý và thông qua rất nhanh kế hoạch 3 điểm: (1) Quyết tâm thanh toán nạn mù chữ trong vòng một năm; (2) Xóa bỏ việc dạy bằng tiếng Pháp, thực hiện việc dạy ở tất cả các cấp, kể cả đại học, bằng tiếng Việt; (3) Nhanh chóng thực hiện kế hoạch cải cách giáo dục, “thay thế hẳn nền giáo dục nhồi sọ, phù phiếm trước đây của Pháp bằng nền giáo dục của chính phủ nhân dân cách mạng theo 3 phương châm: Dân chủ, dân tộc, khoa học.

Tiếp đến là việc Bác Hồ ủng hộ quyết tâm của lãnh đạo Bộ Giáo dục, sớm mở cửa lại trường đại học.

*

Mở trường đại học đào tạo trí thức

Chính phủ, đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh, rất coi trọng nhiệm vụ giáo dục ở bậc đại học để đào tạo nhân tài phục vụ kháng chiến kiến quốc. Chính phủ quyết định trên cơ sở kế thừa và cải tổ các trường đại học và cao đẳng cũ do Pháp mở ở Hà Nội và phát triển thêm một số trường đại học mới, nhằm tạo dựng một nền giáo dục cao đẳng và đại học dân tộc dân chủ của nước Việt Nam độc lập tự do.

Xem thêm: Cuộc Thi Khoa Học Kỹ Thuật Dành Cho Học Sinh Trung Học 2017-2018

*
Chủ tịch Hồ Chí Minh với GS.VS Trần Đại Nghĩa (Hà Nội, 1960) 

Trường Đại học Việt Nam gồm có 5 ban: Y khoa, Khoa học, Văn khoa, Chính trị Xã hội và Mỹ thuật. Ban Văn khoa hoàn toàn mới. Mục đích của ban này nhằm đào tạo một số giáo sư trung học và một số thanh niên có một kiến thức vững bền để tham gia nghiên cứu và phát minh triết học, xã hội, văn chương, sử ký, địa dư góp phần vào công cuộc kiến thiết văn hóa của nhân loại như Giám đốc Nguyễn Văn Huyên đã trình bày trong bài phát biểu tại lễ khai giảng: “Dân tộc Việt Nam, ngoài công cuộc đấu tranh bằng xương máu trên chiến địa cũng nỗ lực tham gia vào công cuộc tiến triển văn hóa nhân loại. Chúng tôi muốn rằng nền đại học mới này là một lực lượng mạnh trong những lực lượng chiến đấu của dân tộc Việt Nam. Chúng tôi muốn nó là một thành lũy để trường kỳ kháng chiến phục hồi hoàn toàn lãnh thổ và giải phóng tinh thần cho dân tộc. Chúng tôi là một dân tộc văn hiến có nghìn năm lịch sử độc lập và đã tự gây nên một nền văn minh đặc sắc ven bể Thái Bình Dương này”.

Sự ra đời của nền đại học Việt Nam ngay từ sau Cách mạng tháng Tám thành công đã đem lại cho giáo sư Nguyễn Văn Huyên và sinh viên các trường đại học lúc bấy giờ niềm tự hào sâu sắc về một nền đại học của nước Việt Nam độc lập tự do và là một động lực lớn để giáo sư và sinh viên nêu cao quyết tâm xây dựng nền đại học dân tộc và sẵn sàng đi vào cuộc thử thách vô cùng gian khổ của sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.

Hồi ức mùa khai trường độc lập đầu tiên

GS Trần Hồng Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, Chủ tịch Hiệp hội các trường Đại học ngoài công lập kể về một trường hợp chi tiết hơn: “Tôi còn nhớ khi đó ở trong Nam, thầy cô giáo thường đào nhiều hầm tránh bom xung quanh lớp học. Trong buổi học nghe tiếng máy bay là học sinh phải sơ tán ngay xuống hầm. Nhiều lúc quá vội, thầy cô nằm trên nắp hầm che chở cho học trò của mình. Giờ nhớ lại những hình ảnh đó, thật thiêng liêng làm sao. Còn tại miền Bắc, học trò thường được thầy cô cho đội nón rơm. Khi đó cũng đâu có bàn ghế, trường lớp như bây giờ. Lấy cây đóng thành thanh ngang, rồi học trò ngồi trên đó học, đặt giấy lên đùi viết bài”.

PGS Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT kể: “Thời kỳ đó, số lượng và quy mô trường lớp nhỏ. Trung bình một huyện có 20 xã chia làm 3 – 4 tổng, mỗi tổng có một trường tiểu học bậc một gồm ba lớp, 25 đến 30 học sinh mỗi lớp (để thi lấy bằng yếu lược), sau đó ba năm nữa thi lấy bằng tiểu học. Tại các làng cũng có những ông giáo tốt nghiệp bằng sơ cấp yếu lược tổ chức lớp dạy cho trẻ con chữ a, b, c, nhân chi sơ tính bản thiện. Ngày đó, trong tổng của tôi có ngôi trường cấp một Thuận An. Trường là ngôi nhà cấp bốn có ba phòng học và một phòng hiệu trưởng, bàn của học sinh được kê thành hai dãy, mỗi bàn bốn chỗ ngồi. Điều ấn tượng nhất với tôi đó là phía dưới các lớp học thường có một cái giá kê phía dưới lớp dùng để treo những đồ nông cụ nhỏ trong gia đình (cối xay lúa, xe quay nước, thúng, mủng, dần, sàng, bát, đũa, chén…) được cha mẹ và học trò tự làm để phục vụ cho việc thực hành ở lớp. Ngày đó, trường tổ chức học hai buổi mỗi ngày, mỗi học trò đều mang cơm theo để buổi trưa ăn và nghỉ ngay tại lớp học. Khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến và trong kháng chiến, hệ thống giáo dục của nước ta vẫn duy trì như trước”.

Ông Nguyễn Hữu Danh, Phó chủ tịch Hội Cựu giáo chức TPHCM kể: “Tôi còn nhớ, trước khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, tôi được tham gia đội Thiếu niên tiền phong. Ngoài giờ học tôi còn tham gia các cuộc mít tinh.… Khi ở nhà, lứa học sinh chúng tôi thường tụ tập tại các khu phố, để quan sát việc vận chuyển vũ khí của giặc (chuyển vào nhà dân Pháp). Chúng tôi có thể làm tốt công việc này vì họ không chú ý tới trẻ con. Thời đó, chúng tôi phải học tất cả chương trình học bằng tiếng Pháp. Mỗi học sinh được chọn hai loại sinh ngữ khác ngoài tiếng Pháp để học. Tất cả học sinh Việt Nam ở Sài Gòn khi đó đều chọn ngoại ngữ 1 là tiếng Việt, ngoại ngữ 2 thường là tiếng Anh để học. Làm như vậy mới có thể duy trì vốn tiếng Việt của dân tộc, không để ngôn ngữ của mình bị mai một”.

Xem thêm: Công Ty Cổ Phần Kiến Trúc Và Nội Thất Platinum Tuyển Dụng, Công Ty Cổ Phần Kiến Trúc Và Nội Thất Platinum

Chính phủ, đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng nhiệm vụ giáo dục ở bậc đại học để đào tạo nhân tài phục vụ kháng chiến kiến quốc. Chính phủ quyết định trên cơ sở kế thừa và cải tổ các trường đại học và cao đẳng cũ do Pháp mở ở Hà Nội vừa tiếp quản và phát triển thêm một số trường đại học mới nhằm tạo dựng một nền giáo dục cao đẳng và đại học dân tộc dân chủ của nước Việt Nam độc lập tự do.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *